Gai
Boehmeria nivea (L.) Gaudich.
Boehmeria nivea (L.) Gaudich.
Tổng quan
Tên khác: Trữ ma, Gai tuyết, Gai làm bánh
Tên khoa học: Boehmeria nivea (L.) Gaudich.
Họ: Gai (Urticaceae)
Mô tả
Cây nhỏ, thân bụi cao 1-2 m. Thân cứng hóa gỗ ở gốc. Cành màu đỏ nhạt, phủ nhiều lông sát.
Lá mọc so le, hình trái xoan hoặc hình trứng, gốc tròn hay hình tim, đầu thuôn nhọn, dài 7 – 15 cm, rộng 4 – 8 cm, lúc non phủ nhiều lông mềm ở cả hai mặt, lúc già thì mặt trên nhẵn màu lục sẫm, mặt dưới lông trở thành trắng bạc. Mép có răng hình tam giác, gân gốc 3, cuống lá mảnh, màu đỏ, có lông mềm, lá kèm hình dải nhọn, dễ rụng.
Cụm hoa cùng gốc hay khác gốc, ngắn hơn lá, mọc ở kẽ lá, xếp thành chùy đơn ở hoa cái hay hợp lại với nhau ở hoa cái và hoa đực, có khi tạo thành những túm dày đặc, cụm hoa đực nhiều hoa, nụ hình cầu có lông lởm chởm, lá dài 4, nhị 4, nhụy lép có dạng quả lê, cụm hoa cái hình cầu, mang nhiều hoa, bao hoa màu lục nhạt, hình trứng có lông, hầu giẹp, hình trái xoan, hơi có cánh.
Quả bế, hình quả lê, có nhiều lông, hạt có dầu
Mùa hoa quả tháng 11 -1.
Phân bố
Gai là cây trồng tương đối phổ biến trong nhân dân để lấy lá làm bánh và rễ củ làm thuốc.
Gai thuộc loại cây ưa ẩm và có thể hơi chịu bóng, sinh trưởng phát triển nhanh trong mùa mưa ẩm, đến mùa đông có hiện tượng rụng lá, hơi tàn lụi. Gai có khả năng tái sinh vô tính khoẻ bằng cách tái sinh cây chồi sau khi chặt và từ các đoạn thân, cành đem giâm xuống đất.
Bộ phận dùng
Rễ củ (Radix Boehmeriae) thường gọi là Trữ ma căn và lá (Folium Boehmeriae).
Thành phần hoá học
Rễ Gai chứa chủ yếu các acid phenol (acid chlorogenic, acid cafeic, acid quinic, acid protocatechuic), ngoài ra còn có flavonoid (rhoifolin, apigenin), triterpen.
Công dụng
Rễ Gai thường được dùng để trị nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm thận, phù thũng, ho ra máu, đái ra máu, trĩ chảy máu, rong kinh, động thai, đe doạ sẩy thai.